Không nên công nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam giai đoạn hiện nay
Hôn nhân đồng giới đang là một vấn đề được tranh luận rất sôi nổi trên thế giới hiện nay. Tính đến thời điểm hiện tại, có khoảng 21 quốc gia công nhận hôn nhân đồng giới như: Hoa Kỳ, Na Uy, Thụy Điển… Ở Việt Nam, chúng ta cũng đang có những ý kiến trái chiều cho vấn đề này.
Để có cách nhìn tổng quát nhất về một vấn đề, đòi hỏi chúng ta cần phải tiếp cận vấn đề đó trên nhiều khía cạnh, dưới các khía cạnh tiếp cận khác nhau sẽ cho các kết quả nghiên cứu khác nhau. Ở bài viết này, tác giả tiếp cận trên phương diện phân tích mặt tiêu cực của vấn đề công nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam hiện nay.
Theo tác giả, với thời điểm hiện tại, việc đồng ý công nhận kết hôn đồng giới là quá vội vàng. Việc công nhận kết hôn đồng giới trong Luật vội vàng sẽ khiến chúng ta có thể nhận những hậu quả phát sinh không lường trước được và kéo theo nó là tác động tiêu cực có thể mang lại cho các thế hệ tương lai.

Hôn nhân đồng giới là gì?
Mục Lục:
- Hôn nhân đồng giới là gì?
- Chưa nên công nhận hôn nhân đồng tính (hôn nhân đồng giới) ở Việt Nam hiện nay
- Thứ nhất, tình hình nhận thức về sức khỏe sinh sản và tình dục ở Việt Nam còn yếu kém.
- Thứ hai, những tác động tiêu cực đến trẻ em – thế hệ tương lai của đất nước
- Thứ ba, quan hệ tình dục đồng giới có tỉ lệ lây nhiễm các bệnh tình dục cao
Có rất nhiều định nghĩa về hôn nhân đồng giới. Tuy nhiên, có thể hiểu theo cách căn bản nhất thì hôn nhân đồng giới là cuộc hôn nhân của hai người có cùng giới tính sinh học.
Chưa nên công nhận hôn nhân đồng tính (hôn nhân đồng giới) ở Việt Nam hiện nay
Chúng ta đều biết người đồng tính cũng như những người bình thường khác chỉ khác về xu hướng tình dục, tình yêu, họ bị chi phối về sinh lý của cơ thể con người mà họ không thể lựa chọn khác được chứ không phải là sự lệch lạc về tâm lý, là sự học đòi hay sự a dua. Bởi vậy, ở các nước phát triển như Mỹ, Na Uy, Thụy Điển,… đều đã công nhận hôn nhân đồng giới.
Tuy nhiên, ở Việt Nam giai đoạn hiện nay chúng ta chưa nên công nhận vấn đề hôn nhân đồng giới, xuất phát từ nhiều lý do:
Thứ nhất, tình hình nhận thức về sức khỏe sinh sản và tình dục ở Việt Nam còn yếu kém.
Theo báo cáo của UNESCO về Việt Nam trong khuôn khổ nghiên cứu trường hợp về mức độ thành công của các chương trình giáo dục tình dục cấp quốc gia. Với báo cáo này, tác giả mong muốn đưa tới bạn đọc một bức tranh “nền” về việc giáo dục tình dục cho vị thành niên và thanh niên ở các cơ sở giáo dục thông qua chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản và phòng chống HIV ở Việt Nam. Báo cáo này đưa ra bằng chứng cho thấy, giáo dục tình dục ở Việt Nam vẫn rất nhấn mạnh đến giáo dục về giới tính (sinh học), bệnh tật (HIV) và sức khỏe sinh sản mà vẫn chưa thực sự là “giáo dục về tình dục”, khi mục tiêu của chương trình quốc gia là “nhằm mục đích giúp học sinh đưa ra được những lựa chọn về sức khỏe sinh sản phù hợp và phòng ngừa “tệ nạn xã hội”.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng thách thức lớn nhất cho giáo dục tình dục ở Việt Nam là nhận thức phổ biến rằng giáo dục về tình dục là “không phù hợp về văn hóa, đặc biệt với học sinh trung học cơ sở”.
Ở Việt Nam vấn đề tình dục luôn được xem là một vấn đề “nhạy cảm”, “tế nhị” nên rất ít khi được nhắc tới. Do đó, thanh thiếu niên thường không biết cơ thể họ thực hiện chức năng sinh dục và sinh sản như thế nào và thường mong muốn có những trao đổi với một người lớn tuổi có hiểu biết vấn đề và nhất là không chỉ trích khi họ nêu thắc mắc tương đối chi tiết về vấn đề này. Thanh thiếu niên chưa có gia đình thường không biết, hoặc không tiếp cận được những dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và như vậy nguy cơ mang thai ngoài ý muốn hoặc mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục, kể cả lây nhiễm HIV/AIDS. Nhiều người lớn còn nghĩ rằng việc đưa giáo dục Sức khỏe sinh sản cho thanh thiếu niên vào chương trình học ví như là “vẽ đường cho hươu chạy” sẽ càng khiến lớp trẻ có quan hệ tình dục sớm hơn và nhiều hơn.
Cũng qua các nghiên cứu trên cho thấy ở một số nước trong khu vực, cha mẹ được xem là những người có trách nhiệm chính trong việc giáo dục Sức khỏe sinh sản cho vị thành niên và thanh niên. Nhưng trên thực tế, do việc việc thiếu hiểu biết chính xác hoặc không biết cách nói chuyện với con cái về chủ đề trên khiến lớp trẻ thích thu lượm những thông tin từ những người khác hay nguồn khác như bạn bè đồng lứa, phương tiện truyền thông không được kiểm soát hơn là từ cha mẹ. Và lẽ tất nhiên chính điều đó đã gây cho các em những hệ lụy không mong muốn.
Với tình hình về nhận thức về quan hệ tình dục và sức khỏe sinh sản của chúng ta còn nhiều mặt hạn chế như tôi đã kể trên thì liệu việc chúng ta đồng ý việc công nhận kết hôn đồng giới trong Luật trong khi chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng nào về vấn đề này liệu có nên hay không? Tôi tin các bạn đều có thể trả lời cho riêng mình.
Thứ hai, những tác động tiêu cực đến trẻ em – thế hệ tương lai của đất nước
Hôn nhân không chỉ là sự kết hợp của hai người bất kỳ. Nó là sự kết hợp của hai gia tộc, hai gia đình, là nền tảng cho việc thiết lập quan hệ họ hàng và cung cấp môi trường tối ưu cho việc nuôi dạy con cái… Trẻ em cần có cả cha và mẹ, trẻ em học hỏi những điều quan trọng qua các mối quan hệ gia đình: sự tiếp xúc giữa những người đàn ông và phụ nữ, vợ và chồng, cha và mẹ… Tuy nhiên, ở hôn nhân đồng giới trẻ em sẽ không được hưởng các điều kiện như vậy. Hôn nhân đồng tính tác động lên trẻ nhỏ và xã hội với nhiều rủi ro thông qua các nghiên cứu (trẻ em thiếu cha hoặc mẹ dẫn tới tăng khả năng lệch lạc hành vi, làm sụt giảm giá trị của hôn nhân trong văn hóa xã hội, thúc đẩy tình trạng làm cha/mẹ đơn thân… )
Tiến sĩ David Blankenhorn cho biết: ông phản đối việc dùng bạo lực chống người đồng tính, nhưng ông mạnh mẽ chống lại hôn nhân đồng tính.
Trong cuốn sách “Tương lai của hôn nhân”, ông viết:
Xuyên suốt lịch sử và mọi nền văn hóa… ý tưởng cơ bản nhất của hôn nhân là mọi trẻ em đều cần một người mẹ và một người cha. Thay đổi luật để chấp nhận hôn nhân đồng tính sẽ phá vỡ nguyên tắc này trong nền văn hóa và pháp luật (…) Chấp nhận hôn nhân đồng tính sẽ khiến cho các thế hệ tương lai nghĩ rằng hôn nhân không phải là vì trẻ em mà chỉ vì sự gắn kết quan hệ. Khi hôn nhân không còn gì nhiều hơn sự gắn kết quan hệ, ít người sẽ kết hôn để có con… Người dân vẫn sẽ sinh con, tất nhiên, nhưng rất nhiều trong số trẻ em là con ngoài giá thú. Đó là một thảm họa cho tất cả mọi người.
Tiến sĩ Richard Kay dẫn số liệu tại Bắc Âu cho biết:
Chúng ta có thể thấy hệ quả của hôn nhân đồng tính ở các nước Bắc Âu. Ở Na Uy, đã hợp pháp hôn nhân đồng tính kể từ đầu thập niên 1990. Thống kê năm 2000 tại Nordland, quận tự do nhất của Na Uy cho thấy: tỷ lệ con ngoài giá thú (không rõ tên cha) đã tăng vọt tới 80% trong số những phụ nữ sinh con lần đầu tiên, tổng cộng khoảng 70% trẻ em là con ngoài giá thú! Trên toàn Na Uy, số trẻ em ngoài giá thú đã tăng khoảng 50% trong thập kỷ đầu tiên của hôn nhân đồng tính. [1]
Toni Meyer, nhà nghiên cứu cao cấp của Hội đồng Chính sách gia đình bang New Jersey (Mỹ), dẫn nghiên cứu năm 2012 của giáo sư xã hội học Mark Regnerus của trường Đại học Texas đối với 2.988 người tuổi từ 18 đến 39 – trong đó có 175 được nuôi lớn bởi đồng tính nữ và 73 người bởi đồng tính nam.
Nghiên cứu cho thấy rằng hôn nhân đồng tính sẽ gây ra nguy hại nghiêm trọng đối với trẻ em, rằng trẻ em nuôi dưỡng bởi cha mẹ đồng tính gặp vấn đề đáng kể hơn so với những đứa trẻ khác: có vấn đề tinh thần cần phải điều trị, tự nhận mình là đồng tính, thiếu chung thủy với bạn đời, nhiễm bệnh hoa liễu, lạm dụng tình dục hoặc bị cưỡng hiếp, có mức thu nhập thấp hơn, nghiện rượu, thuốc lá và cần sa.
(Hôn nhân đồng tính) sẽ ảnh hưởng lớn nhất lên vai trẻ em. Đó là những nạn nhân vô tội của một thử nghiệm xã hội khiến đạo đức và thậm chí là cả thể chất (của trẻ em) đã bị phá vỡ trong cái gọi là “Tự do, bình đẳng và tiến bộ”. Từ năm 1994, số người đồng tính nam đã tăng 18%, và số lượng đồng tính nữ còn tăng tới 157%. Điều này cho thấy những yếu tố văn hóa có tác động mạnh mẽ trong việc khuyến khích các hành vi đồng tính, và ít nhất là gián tiếp, nó làm suy yếu toàn bộ lý thuyết về việc “đồng tính là bẩm sinh”…
Nghiên cứu này không chỉ cho thấy có sự khác biệt lớn giữa trẻ em từ cả hai nhóm, mà còn nhấn mạnh rằng sự bất ổn định gia đình là một “dấu hiệu đặc trưng” của hôn nhân đồng tính, kéo theo đó là ảnh hưởng tiêu cực đến đứa trẻ.
Nhà nhân chủng học Stanley Kurtz viết:
Vâng, nếu hôn nhân không phải là vì trẻ em, vậy thứ gì là vì trẻ em? Trái ngược với những gì các nhà hoạt động đồng tính hô hào, nhà nước không xác nhận quyền kết hôn chỉ vì mọi người có tình cảm với nhau.
Nhà nước công nhận hôn nhân chủ yếu là vì lợi ích của hôn nhân cho trẻ em và xã hội(nếu không, chúng ta sẽ phải công nhận cả hôn nhân cận huyết hoặc chế độ đa thê). Xã hội không nhận được lợi ích gì từ hôn nhân đồng tính. Tương lai của trẻ em và một xã hội văn minh phụ thuộc vào hôn nhân bền vững giữa nam và nữ. Đó là lý do tại sao, bất kể những gì bạn nghĩ về đồng tính luyến ái, hai loại quan hệ không bao giờ nên được coi là tương đương về pháp lý.
Nhà nghiên cứu Dana Mack dẫn lời Bronisław Malinowski, nhà nhân chủng học vĩ đại nhất thế kỷ 20, rằng sự lãng mạn hay tính kinh tế chưa bao giờ là lợi ích chủ chốt trong hôn nhân, nó chủ yếu là một sự sắp xếp dành cho trẻ em. Ông cho rằng:
“Trong thế kỷ 20, thể chế hôn nhân ở phương Tây đã suy thoái nghiêm trọng… Cùng với sự gia tăng làn sóng ủng hộ hôn nhân đồng tính, các khái niệm về chức năng gia đình (cha-mẹ, vợ-chồng) ngày càng trở nên hỗn loạn… Hôn nhân không nên được mở rộng cho các cặp đồng tính bởi nó không thể giúp sinh sản.
Hôn nhân là cách thức của nhân loại mà mục đích cốt lõi là để đoàn kết các thành phần sinh học, xã hội và pháp lý của cha mẹ vào cam kết lâu dài. Hôn nhân nói với một đứa trẻ rằng: một người đàn ông và một người phụ nữ sẽ ở đó để yêu thương và dạy dỗ bạn. Trong ý nghĩa này, hôn nhân là một món quà mà xã hội ban cho đứa trẻ.
Cho phép hôn nhân đồng tính sẽ làm chuyển đổi mục đích của hôn nhân: từ nghĩa vụ sinh đẻ và nuôi dưỡng trẻ em trở thành một dạng hợp đồng hôn nhân thể hiện ham muốn ích kỷ của người lớn. Điều đó sẽ làm mục ruỗng thêm tấm vải hôn nhân, thứ đã trở nên quá rách nát (ở phương Tây)” [2]
Tiến sĩ tâm lý học Trayce Hansen khẳng định: Hôn nhân đồng giới thực sự không tốt cho trẻ em.
Nhà tâm lý học đã viện dẫn các luận chứng, luận cứ chứng minh rằng môi trường lý tưởng nhất cho sự phát triển của trẻ em là một gia đình có cha và mẹ theo đúng nghĩa. Ông nói:“Hai người phụ nữ có thể là người mẹ tốt nhưng không ai có thể là một người cha hoàn hảo”. Cha và mẹ, mỗi người một giới tính sẽ giúp cho trẻ em có cái nhìn toàn diện hơn về giới tính của bản thân, từ đó có suy nghĩ và hành động lành mạnh và cân bằng trong các mối quan hệ sau này, đó là điều được nhân loại đúc rút qua 5.000 năm.
Hôn nhân đồng tính sẽ làm cho trẻ em bối rối về biểu hiện giới tính và vô tình khuyến khích những hành vi không đúng về giới tính ở trẻ vị thành niên. Mặc dù đồng cảm với những người đồng tính nhưng không nên vì sự đồng cảm đó mà biến trẻ em thành “chuột bạch” để rồi gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội. Nếu so sánh giữa được và mất, giữa nhu cầu của người đồng tính và trẻ em thì chúng ta không thể để trẻ em là người chịu thiệt thòi.Điều này có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội về lâu dài.
Trong cuốn sách “Lớn lên trong một gia đình đồng tính nữ: Tác động với sự phát triển trẻ em”, 2 tiến sĩ Fiona Tasker và Susan Golombok, quan sát thấy rằng 25% những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính cũng đã tham gia vào một mối quan hệ đồng tính, so với xấp xỉ 0% ở những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ bình thường.
Một nghiên cứu mới vào năm 2012 của Mark Regnerus, giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên cứu xã hội Hoa Kỳ cho thấy: trong ngắn hạn, các cặp đồng tính có thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường; nhưng về dài hạn, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) là không thể khắc phục được, và con nuôi của họ khi bước vào tuổi thành niên sẽ gặp phải nhiều vấn đề hơn hẳn so với con cái của những gia đình thông thường, .
Nghiên cứu trên của Mark Regnerus nhận được sự ủng hộ của Trường Cao đẳng nhi khoa Hoa Kỳ, một tổ chức quốc gia của các bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và giáo dục dành cho trẻ em. Hội đồng Nghiên cứu gia đình Hoa Kỳ đã có bài phân tích ủng hộ nghiên cứu và cho biết: nhờ mẫu thống kê lớn nên nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng cho biết về tình trạng của trẻ em trong gia đình đồng tính về dài hạn, cũng như bản chất “bất ổn định” của cặp đồng tính. Nghiên cứu này đã xóa tan những ngộ nhận về việc “cha mẹ đồng tính không khác cha mẹ thường”. Kết quả của nó tương đồng với nghiên cứu của các chuyên gia nghiên cứu chính sách gia đình, và không có gì đáng ngạc nhiên khi nghiên cứu này bị tấn công quyết liệt các nhà hoạt động ủng hộ đồng tính.
Một đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi 1 cặp đồng tính chắc chắn sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề hơn. [3]
Nếu 1 cặp đồng tính nam nhận con gái nuôi hoặc cặp đồng tính nữ nhận con trai nuôi, đứa trẻ sẽ phải lớn lên mà thiếu vắng sự hướng dẫn giới tính từ người có cùng giới tính với nó, nhất là trong giai đoạn dậy thì, từ đó làm tăng nguy cơ về sự lệch lạc hành vi giới tính. Sự dễ chia tay hoặc quan hệ ngoài luồng, vốn phổ biến của các cặp đồng tính, cũng làm tăng nguy cơ chấn thương tâm lý ở đứa trẻ. Tệ hơn, đứa trẻ có thể phải đối mặt với sự kỳ thị, trêu chọc hoặc cô lập từ bạn bè cùng trang lứa, từ đó hình thành tâm lý bất mãn hoặc nổi loạn. Nhà tâm lý Enrique Rojas cho biết: Theo các nghiên cứu từ Hoa Kỳ, Canada, và New Zealand, 70-80% số đứa trẻ được nuôi bởi người đồng tính sẽ phát triển những khuynh hướng đồng tính tương tự.

Ở một khía cạnh khác, hôn nhân đồng giới có nên được công nhận hay không khi mà vấn đề “đồng tính” vẫn luôn là vấn đề bị kỳ thị hiện nay ở Việt Nam, làm cho những đứa trẻ có cha mẹ là người đồng tính cũng bị kỳ thị, trở thành những nạn nhân của chính xã hội.
Thứ ba, quan hệ tình dục đồng giới có tỉ lệ lây nhiễm các bệnh tình dục cao
Theo báo cáo năm 2011, tỉ lệ nhiễm HIV trong nhóm đồng tính nam ở Đồng Nai cao gấp 20 lần so với đối tượng ma túy và mại dâm. Nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ lây nhiễm HIV/AIDS cao do một đồng tính nam thường có nhiều bạn tình, họ thường giới thiệu bạn tình cho nhau và cùng quan hệ, nên chỉ cần 1 người nhiễm HIV thì sẽ nhanh chóng lây lan sang các đối tượng khác.
Tại Việt Nam, theo báo cáo giám sát trọng điểm năm 2013 của Bộ Y tế, tỉ lệ nhiễm HIV trong những người nam quan hệ tình dục với nam ở thành phố Hồ Chí Minh là 13,5%, tỷ lệ này thấp hơn ở các tỉnh như Hà Nội hay Cần Thơ cũng là 10,4%.
Năm 2014, ở tp HCM nhóm nam có quan hệ tình dục đồng giới nhiễm HIV đang có chiều hướng gia tăng nhanh so với năm 2012, từ 7,33% lên 14,75%. [4]
Như vậy, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới với nam cao hơn tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm người dân nói chung từ 20 – 30 lần. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm tình dục đồng giới?
Trước hết phải khẳng định một điều rằng: người có quan hệ tình dục đồng giới nói chung và nam giới có quan hệ tình dục với nam giới nói riêng không phải là nguyên nhân gây ra căn bệnh nguy hiểm HIV/AIDS. Sự thiếu hiểu biết về hiện tượng này khiến cho đến nay vẫn có người cho rằng quan hệ tình dục đồng giới gieo rắc HIV trong cộng đồng. HIV/ AIDS lây nhiễm qua đường máu, quan hệ tình dục và từ mẹ sang con, nên nó có thể không chừa một ai, kể cả những người được cho là sống đạo đức nhất, luôn luôn quan hệ tình dục theo kiểu truyền thống và không biết thế nào là tình dục đồng giới. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ lây nhiễm HIV/AIDS cao do một đồng tính nam thường có nhiều bạn tình, họ thường giới thiệu bạn tình cho nhau và cùng quan hệ, nên chỉ cần 1 người nhiễm HIV thì sẽ nhanh chóng lây lan sang các đối tượng khác.
Một nguyên nhân khác đó là cách quan hệ tình dục
Những người đồng tính thường sinh hoạt tình dục qua đường hậu môn nên tăng nguy cơ bị lây nhiễm HIV từ người nhiễm HIV sang người lành. Hậu môn không có dịch nhờn bôi trơn. Hơn nữa, niêm mạc trực tràng có nhiều mao mạch, dễ bị tổn thương, xây xước khi sinh hoạt tình dục qua đường này. Những vết xước rất nhỏ không thể nhận thấy bằng mắt thường trên bề mặt của niêm mạc hậu môn xảy ra trong lúc giao hợp là đường xâm nhập của HIV. Qua những vết xây xước này, HIV sẽ xâm nhập từ người bị nhiễm HIV sang người lành và từ đó vào máu.
Kết luận
Từ những lý lẽ trên, tác giả nhận thấy, kết hôn đồng giới thật sự là một quyền bình đẳng rất cần thiết dành cho những người thực sự. Tuy nhiên, nó chỉ có thể được phát huy hiệu quả cũng như không phát sinh những hậu quả khôn lường nếu chúng ta có những bước chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như phát triển nâng cao tầm nhận thức trong mỗi người dân Việt Nam. Nếu vội vàng, thì một việc làm tốt có thể sẽ trở thành một quyết định sai lầm của chúng ta.
Tác giả: dethiluat.com
Footnote và Danh mục tài liệu tham khảo
[1] Bài viết: Hôn nhân đồng giới được đăng tải trên website: http://vi.wikipedia.org/.
[2] Bài viết: Người đồng tính, song tính hoặc hoán tính làm cha mẹ được đăng tải trên website: http://vi.wikipedia.org/.
[3] Bài viết: Vấn đề nuôi dạy con của người LGBT được đăng tải trên website: http://vi.wikipedia.org/.
[4] Bài viết: Tỷ lệ nhiễm HIV tăng do quan hệ tình dục đồng giới được đăng tải trên báo http://suckhoe.vnexpress.net/ ngày 06/08/2014.
——————–
Trên đây là những luận điểm của tác giả bảo vệ cho quan điểm không nên công nhận hôn nhân đồng tính, nếu các bạn có những luận điểm khác về quan điểm không nên công nhận hôn nhân đồng giới hãy để lại bình luận, chúng ta cùng thảo luận nhé!
#Cảm ơn các bạn, chúc một ngày tốt lành!